Châu Nhuận Phát
周潤發 (Chu Nhuận Phát) | |
Hình:Chow Yun Fat.jpg Chu Nhuận Phát tại buổi chiếu ra mắt phim Cướp biển vùng Caribê: Nơi tận cùng thế giới | |
Tên khai sinh | Chu Nhuận Phát |
Ngày sinh | 18 tháng 5, 1955 (52 tuổi) tại Nam Nha Đảo, Hồng Kông |
Chiều cao | 1,85 m |
Tên khác | Donald Chow Phát Ca (發哥) |
Vai diễn chú ý | Lý Mã Khắc trong Anh hùng bản sắc Hứa Văn Cường trong Bến Thượng Hải Lý Mộ Bạch trong Ngọa hổ tàng long |
Chồng/vợ | Dư An An (1983-1983) Trần Oải Liên (1986-) |
Chu Nhuận Phát (thường được báo chí Việt Nam viết là Châu Nhuận Phát) (Hoa phồn thể: 周潤發, Hoa giản thể: 周润发, bính âm: Zhōu Rùnfā, tiếng Anh: Donald Chow Yun-Fat) (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1955) là một diễn viên Hồng Kông nổi tiếng. Châu Nhuận Phát là một trong những ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Từ giữa thập niên 1990, Châu bắt đầu chuyển hướng sang Hollywood.
Tiểu sử
Châu Nhuận Phát sinh ngày 18 tháng 5 năm 1955 tại Nam Nha Đảo (南丫島), Hồng Kông trong một gia đình người Khách Gia nghèo. Khi còn nhỏ Châu thường phải dạy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều cậu lại phải ra đồng làm việc. Năm Châu Nhuận Phát lên 10 thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long.
Năm 17 tuổi, Châu Nhuận Phát phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều nghề khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.
Sự nghiệp
Năm 1973, cuộc sống của Châu thay đổi sau khi anh đọc được một thông báo tuyển diễn viên của hãng TVB. Sau khi được hãng TVB tuyển chọn và ký hợp đồng 3 năm, Châu bắt đầu tham gia các bộ phim truyền hình của TVB và nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhờ ngoại hình cao to (Châu Nhuận Phát cao 1,85m) và khả năng diễn xuất. Năm 1980, Châu thực sự trở thành ngôi sao của màn ảnh nhỏ Hồng Kông sau khi thủ vai Hứa Văn Cường trong bộ phim truyền hình dài 25 tập Bến Thượng Hải (上海灘), đây được coi là một trong những bộ phim truyền hình thành công nhất mà TVB đã từng sản xuất. Sau Bến Thượng Hải, Châu Nhuận Phát lại tiếp tục thành công qua vai Lệnh Hồ Xung trong phiên bản truyền hình năm 1984 của tiểu thuyết võ hiệp Tiếu ngạo giang hồ.
Song song với những thành công trên truyền hình, Châu Nhuận Phát bắt đầu thử sức ở lĩnh vực điện ảnh. Bộ phim điện ảnh đầu tiên của anh là Trì nữ (池女, 1976), một phim cấp 3[1] nhưng bộ phim không thành công và diễn xuất của Châu cũng ít gây được chú ý, người ta biết đến anh chủ yếu vẫn là qua những bộ phim truyền hình dài tập. Năm 1981 Châu Nhuận Phát có được thành công điện ảnh đầu tiên với vai diễn trong bộ phim Hồ Việt đích cố sự (胡越的故事) của đạo diễn Hứa An Hoa. Nhưng phải chờ đến năm 1986, vai diễn đột phá mới thực sự đến với Châu khi anh được đạo diễn Ngô Vũ Sâm chọn vào vai tham gia Lý Mã Khắc cho bộ phim Anh hùng bản sắc (英雄本色). Sau khi ra mắt, Anh hùng bản sắc đã thành công vang dội cả về mặt doanh thu và nghệ thuật, bộ phim được coi là tác phẩm kinh điển của thể loại phim hành động Hồng Kông và được xếp thứ hai trong Danh sách các bộ phim hay nhất của điện ảnh Hoa ngữ 100 năm qua[2] còn Châu Nhuận Phát lập tức trở thành ngôi sao hành động mới của điện ảnh Hồng Kông.
Sau thành công đầu tiên, Châu tiếp tục hợp tác với đạo diễn Ngô Vũ Sâm trong các bộ phim hành động thành công khác như Anh hùng bản sắc 2 (英雄本色 2, 1987), Điệp huyết song hùng (喋血双雄, 1989), Lạt thủ thần tham (辣手神探, 1992). Nhưng không chỉ đóng đinh với các vai anh hùng hành động, Châu còn thành công với các bộ phim tình cảm như Thu thiên đích đồng thoại (秋天的童話, 1987) hay A Lang đích cố sự (阿郎的故事, 1989).
Năm 1989, Châu Nhuận Phát vào vai "thần bài" Cao Tiến trong phim Thần bài (赌神) của đạo diễn Vương Tinh. Bộ phim thành công vang dội và mở ra một thể loại phim mới của điện ảnh Hồng Kông, phim về cờ bạc với nhiều bộ phim theo bước Thần bài do Lưu Đức Hoa và Châu Tinh Trì thủ vai. Riêng Châu Nhuận Phát thì thực sự khẳng định vị trí ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông giai đoạn cuối những năm 1980.
Giữa thập niên 1990, sau rất nhiều thành công ở thị trường điện ảnh Hồng Kông, Châu Nhuận Phát bắt đầu tham gia các bộ phim của Hollywood với hy vọng sẽ trở thành một ngôi sao người Hoa ở tầm quốc tế như Lý Tiểu Long đã từng làm được. Sau bộ phim cuối cùng làm ở Hồng Kông, Hòa bình phạm điếm (和平飯店, 1995), Châu nghỉ hẳn hai năm để hoàn thiện tiếng Anh và chuyển tới Mỹ để chuẩn bị phát triển sự nghiệp. Hai bộ phim Mỹ đầu tiên của Châu là Replacement Killers (1998) và The Corruptor (1999) là những thất bại về doanh thu. Bộ phim tiếp theo, Anna and the King (1999) mà trong đó Châu đóng cặp với nữ diễn viên từng hai lần đoạt Giải Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Jodie Foster đánh dấu thành công đầu tiên, tuy còn hạn chế, của Châu ở Hoa Kỳ. Năm 2000 Châu tham gia bộ phim võ hiệp Ngọa hổ tàng long của đạo diễn Lý An, thành công lớn của bộ phim (giành Giải Oscar Phim ngoại ngữ hay nhất) một lần nữa đưa Châu trở lại vị trí ngôi sao lớn của điện ảnh tiếng Hoa. Năm 2006, Châu Nhuận Phát đóng cặp cùng Củng Lợi trong bộ phim Hoàng kim giáp (满城尽带黄金甲) của đạo diễn Trương Nghệ Mưu và được đề cử giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông, đây là lần thứ 13 ông được đề cử giải thưởng này và đang là người giữ kỷ lục về số lần đề cử.
Năm 2007 Châu Nhuận Phát vào vai tướng cướp Khiếu Phong (Sao Feng), một vai nhỏ trong bộ phim bom tấn Cướp biển vùng Caribê: Nơi tận cùng thế giới (Pirates of the Caribbean: At World's End). Bộ phim mới nhất của Châu là The Children of Huang Shi dự định sẽ được công chiếu vào cuối năm 2007.
Đời tư
Châu Nhuận Phát đã có hai đời vợ. Người vợ đầu của ông là Dư An An (余安安). Hai người lập gia đình năm 1983 khi Châu đang ngôi sao của hãng TVB còn Dư lại là ngôi sao của hãng truyền hình đối địch Asia Television Ltd (ATV). Chỉ 9 tháng sau ngày cưới, Châu Nhuật Phát và Dư An An đã làm thủ tục ly dị, những rắc rối gia đình này đã làm ảnh hưởng tới sự nghiệp điện ảnh của Châu trong những năm đầu thập niên 1980.
Năm 1986, Châu Nhuận Phát cưới một cô gái người Singapore tên là Trần Oải Liên (陳薈蓮). Trần đã từng một lần mang thai nhưng bị sẩy và từ đó đến nay hai người không có con.
Phim đã đóng
Truyền hình
Năm | Phim | Tên tiếng Hoa |
---|---|---|
1974 | Giang hồ tiểu tử | 江湖小子 |
1976 | CID | |
Cuồng triều | 狂潮 | |
1978 | Đại hanh | 大亨 |
Cường nhân | 強人 | |
Phấn đấu | 奮鬥 | |
1979 | Võng trung nhân | 網中人 |
1980 | Thân tình | 親情 |
Bến Thượng Hải | 上海灘 | |
1981 | Thiên vương quần anh hội | 千王群英會 |
Tiền lộ | 前路 | |
Ngạc ngư đàm | 鱷魚潭 | |
Hoả phượng hoàng | 火凤凰 | |
1982 | Tô Khất Nhi | 蘇乞兒 |
Cô thành khách | 孤城客 | |
1983 | Thiên hàng tài thần | 天降財神 |
Bá âm nhân | 播音人 | |
Bắc đẩu song hùng | 北斗雙雄 | |
1984 | Tiếu ngạo giang hồ | 笑傲江湖 |
1985 | Đại hương cảng | 大香港 |
Tân trát sư huynh tục tập | 新紮師兄續集 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét